Chính quyền địa phương 2 cấp: Lưu ý về soạn thảo, lưu giữ tài liệu có chứa bí mật Nhà nước
Thực tiễn xử lý của công an, đòi hỏi các tổ chức, cá nhân chú trọng hơn đến sự an toàn khi soạn thảo, lưu giữ tài liệu trên máy tính kết nối mạng nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ bí mật Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số, triển khai chính quyền địa phương 2 cấp.
Thu thập, trao đổi, cung cấp, chuyển giao bí mật Nhà nước; sao, chụp, lưu giữ, vận chuyển, giao, nhận, thu hồi, tiêu hủy tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước trái pháp luật là hành vi bị nghiêm cấm. Đồ họa: TM
Từ đầu năm 2025, trước thực trạng điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và bàn giao hồ sơ, tài liệu do sắp xếp đơn vị hành chính theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, Công an tỉnh Quảng Ninh đã tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước.
Ngày 18/8/2025, Phòng An ninh chính trị nội bộ đã lập biên bản, xử phạt vi phạm hành chính đối với 8 trường hợp là cán bộ, đảng viên công tác tại các cơ quan cấp xã, phường trên địa bàn tỉnh vì có hành vi vi phạm quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước.
Triển khai các cuộc kiểm tra trong những tháng đầu năm, Công an tỉnh Quảng Ninh phát hiện các hành vi vi phạm chủ yếu như: Soạn thảo tài liệu, lưu giữ tài liệu có chứa bí mật Nhà nước trên máy tính nối mạng hoặc thiết bị khác đã, đang kết nối với mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông không đúng quy định; không xác định và đóng dấu chỉ độ mật theo quy định…
Bà Nguyễn Thị Hạnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo công tác bảo vệ bí mật Nhà nước tỉnh Quảng Ninh từng yêu cầu Công an tỉnh tăng cường kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm về bảo vệ bí mật Nhà nước, bảo đảm tuyệt đối an toàn thông tin trong tình hình mới, nhất là sau khi triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Công an tỉnh Quảng Ninh cho biết, thời gian tới, bên cạnh việc giám sát, kiểm tra, Phòng An ninh chính trị nội bộ sẽ tiếp tục hướng dẫn để giúp các cơ quan, tổ chức thực hiện đúng quy định, góp phần giữ vững an ninh chính trị nội bộ.
Đồng thời, giúp các cá nhân nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm, tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật, không chủ quan, lơ là trong việc tiếp cận, quản lý và sử dụng thông tin thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ.
Theo quy định, bảo vệ bí mật Nhà nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, là nghĩa vụ bắt buộc đối với từng cán bộ, công chức, viên chức và mỗi công dân.
Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có những nội dung trực tiếp liên quan đến việc soạn thảo tài liệu, lưu giữ tài liệu trên thiết bị kết nối mạng.
Cụ thể, Điều 5 của Luật quy định:
Nghiêm cấm soạn thảo, lưu giữ tài liệu có chứa nội dung bí mật Nhà nước trên máy tính hoặc thiết bị khác đã kết nối hoặc đang kết nối với mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, trừ trường hợp lưu giữ bí mật Nhà nước theo quy định của pháp luật về cơ yếu.
Nghiêm cấm truyền đưa bí mật Nhà nước trên phương tiện thông tin, viễn thông trái với quy định của pháp luật về cơ yếu.
Nghiêm cấm chuyển mục đích sử dụng máy tính, thiết bị khác đã dùng để soạn thảo, lưu giữ, trao đổi bí mật Nhà nước khi chưa loại bỏ bí mật Nhà nước.
Bên cạnh đó, Điều 12 của Luật cũng đưa ra đòi hỏi chặt chẽ đối với thống kê, lưu giữ, bảo quản tài liệu, vật chứa bí mật Nhà nước là: Khi tiếp nhận, phát hành phải được thống kê theo trình tự thời gian, theo độ mật; phải áp dụng biện pháp bảo đảm an toàn thích hợp nếu chứa trong thiết bị có tính năng lưu, sao, chụp và phải được lưu giữ, bảo quản tại nơi an toàn, có phương án bảo vệ.
Phòng An ninh chính trị nội bộ làm việc với trường hợp vi phạm bảo vệ bí mật Nhà nước. Ảnh: CA Quảng Ninh
Bộ Công an đã hoàn thành dự thảo Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước (sửa đổi) để lấy ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Dự thảo lần này bổ sung nhiều nội dung mới, phù hợp thực tiễn chuyển đổi số và việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
Theo đó, quy định rõ 3 hình thức sao, chụp: Từ bản giấy sang bản giấy; từ bản giấy sang văn bản điện tử; từ văn bản điện tử sang bản giấy để phù hợp với quá trình chuyển đổi số. Đồng thời, bỏ quy định số hóa tài liệu bí mật Nhà nước để lưu trữ trên máy tính hoặc scan thành văn bản điện tử để chuyển giao trên môi trường điện tử thì không phải thực hiện quy trình sao, chụp.
Dự thảo cũng bãi bỏ các hình thức sao y, sao lục, trích sao, chỉ giữ lại một hình thức duy nhất là “bản sao bí mật Nhà nước”.
Một điểm mới quan trọng khác là bổ sung việc xác định độ mật đối với dự thảo văn bản chứa thông tin thuộc danh mục bí mật Nhà nước để phù hợp với thực tiễn và phòng ngừa lộ, mất bí mật Nhà nước trong quá trình dự thảo. Dự thảo bỏ cụm từ “duyệt, ký”, thay bằng quy định đề xuất độ mật thể hiện tại tờ trình, phiếu trình.
Ngoài ra, dự thảo còn quy định cách xử lý khi xác định sai độ mật, xác định không đúng bí mật Nhà nước; xác định độ mật đối với văn bản điện tử bí mật Nhà nước; quy định trực tiếp mẫu dấu độ mật, văn bản xác định bí mật Nhà nước.
Luật sư Hoàng Việt Hùng (Công ty Luật Uplaw) nhận định, dự thảo Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước (sửa đổi) đã bám sát hai Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và công tác triển khai mô hính chính quyền địa phương 2 cấp quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025.
Thứ nhất, đó là Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, trong đó có nhiệm vụ “Có kế hoạch và lộ trình đưa toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị lên môi trường số, bảo đảm liên thông, đồng bộ, bí mật Nhà nước”.
Thứ hai, là Nghị quyết số 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, trong đó có giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật, bảo vệ an toàn thông tin bí mật Nhà nước.
Theo luật sư Hùng, việc sửa đổi sẽ giúp giảm thủ tục hành chính không cần thiết; tháo gỡ vướng mắc cho cơ quan, tổ chức, nhất là cấp cơ sở khi cần triển khai tiếp đến đơn vị trực thuộc, không gây cản trở cho quá trình xử lý công việc và hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, nhất là khi triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; tạo thuận lợi cho công tác áp dụng, tra cứu…