Bổ sung quyền hạn của cơ quan thanh tra trong quản lý thuế
Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đang được Bộ Tài chính soạn thảo và hoàn thiện đã bổ sung quyền hạn của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các cơ quan kiểm tra, giám sát trong quản lý thuế.
Ảnh minh họa
Quyền hạn của cơ quan thanh tra cũng được bổ sung trong dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi). Theo đó, cơ quan thanh tra thực hiện thanh tra hoạt động của cơ quan quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thanh tra, pháp luật về thuế và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trường hợp qua hoạt động thanh tra tại trụ sở cơ quan quản lý thuế hoặc tại trụ sở người nộp thuế, đoàn thanh tra phát hiện hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn hoặc hành vi trốn thuế thì người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động thanh tra có trách nhiệm xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật để bảo đàm nguyên tắc hành vi vi phạm hành chính được phát hiện, ngăn chặn kịp thời; đồng thời chuyển cơ quan quản lý thuế văn bản xử lý vi phạm theo quy định.
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế của cơ quan thanh tra
Sở dĩ cơ quan thanh tra được bổ sung quyền như vậy vì cơ quan thanh tra là đơn vị có chức năng thanh tra trong lĩnh vực quản lý thuế và có khả năng phát hiện các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế của người nộp thuế. Vì thế, dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) bổ sung thẩm quyền của cơ quan này thực hiện xử phạt vi phạm hành chính nhằm đảm bảo tính liên tục, nhất quán về chủ thể thực hiện trong quá trình phát hiện và xử lý hành vi vi phạm. Đồng thời, hạn chế việc chuyển hồ sơ, kiến nghị giữa cơ quan thanh tra cho cơ quan thuế như hiện nay dẫn tới việc xử phạt vi phạm hành chính không kịp thời hoặc cơ quan thuế phải lập lại biên bản vi phạm hành chính đối với người nộp thuế, làm tăng thời gian người nộp thuế phải trao đổi thông tin, phục vụ việc thanh tra của các cơ quan nhà nước, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc bổ sung quyền hạn của cơ quan thanh tra nói riêng cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung giúp cho công tác quản lý thuế được hiệu quả hơn đảm bảo nguồn lực tài chính cho ngân sách nhà nước.
Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) gồm 10 chương, 54 điều, cụ thể như sau:
Chương I về Quy định chung gồm 09 Điều (từ Điều 1 đến Điều 9);
Chương II về Các chức năng quản lý thuế gồm 7 Mục, 16 Điều (từ Điều 10 đến Điều 25). Mục 1. Đăng ký thuế; Mục 2. Khai thuế, tính thuế, khấu trừ thuế; Mục 3. Nóp thuế, gia hạn nộp thuế, xử lý tiền thuế nộp thừa, xử lý chậm nộp tiền thuế; Mục 4. Hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế, không chịu thuế; Mục 5. Khoanh nợ, xỏa nợ; Mục 6. Kiểm tra thuế; Mục 7. Ấn định thuế.
Chương III về Hóa đơn điện tử, chứng từ điện tử gồm 02 Điều (từ Điều 26 đến Điều 27);
Chương IV về Hợp tác quốc tế về thuế, quản lý thuế quốc tế gồm 04 Điều (từ Điều 28 đến Điều 31);
Chương V về Quản lý rủi ro và quản lý tuân thủ gồm 03 Điều (từ Điều 32 đến Điều 34);
Chương VI về Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ, quyền hạn của bên liên quan trong quản lý thuế gồm 04 Điều (từ Điều 35 đến Điều 38);
Chương VII về Khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp gồm 03 Điều (từ Điều 39 đến Điều 41);
Chương VIII về Xử lý vi phạm hành chính về quản lý thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế gồm 2 Mục, 07 Điều (từ Điều 42 đến Điều 48). Trong đó: Mục 1. Xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế; Mục 2. Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế.
Chương IX về Chuyển đổi số trong quản lý thuế gồm 03 Điều (từ Điều 49 đến Điều 51);
Chương X về Điều khoản thi hành gồm 03 Điều (từ Điều 52 đến Điều 54).