Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV: Định hình rõ hơn hình ảnh Việt Nam trong kỷ nguyên mới là quốc gia số, quốc gia xanh
Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là hai vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm tại phiên thảo luận sáng 29/10 về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026; kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021 - 2025.
* Cần một tầm nhìn dài hạn
Đánh giá của các đại biểu cho thấy, trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, gần 5 năm qua, chúng ta đã và đang thực hiện 2 cuộc chuyển đổi lớn là chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, đạt được những kết quả rất ấn tượng và tự hào. Điều này được thể hiện qua các con số như Chỉ số sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2025 xếp hạng thứ 44/139 quốc gia, vùng lãnh thổ. Hạ tầng số phát triển mạnh, 100% xã có cáp quang, phủ sóng 5G đạt 26%.
Chính phủ số, kinh tế số có bước tiến vượt bậc, tiết kiệm lớn chi phí xã hội với chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 xếp hạng 71/193. Chỉ số phát triển bền vững xếp hạng 51/165, đứng top đầu trong ASEAN. Năng lượng tái tạo đạt tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu và triển khai sản xuất 1 triệu ha lúa phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy vậy, nước ta đang đối mặt với những thách thức trong quá trình chuyển đổi, không chỉ mang tính chất kỹ thuật mà còn liên quan đến thể chế, nguồn lực, nhận thức về khoảng cách số và năng lực cạnh tranh.
Đại biểu Tạ Đình Thi (Hà Nội) nêu một loạt thách thức, như tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất công nghệ chỉ đạt khoảng 36,6%, phụ thuộc nặng nề vào khu vực FDI chiếm khoảng 75% xuất khẩu. Doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa tạo được vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm, năng suất lao động trong giai đoạn 2021 - 2025 chỉ tăng 5,24%/năm, thấp hơn so với mục tiêu và thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực then chốt.
Đối với chuyển đổi xanh, áp lực về năng lượng và tài nguyên ngày càng lớn. Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, nhất là thiên tai, thời tiết cực đoan diễn biến phức tạp. Đồng bằng sông Cửu Long, vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm đang chịu tác động nặng nề của xâm nhập mặn, sạt lở.
Bên cạnh đó, nền kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ. Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP khoảng 24,7%. Ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư tư nhân trong các dự án xanh, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng của công nghệ số để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải. Thiếu các mô hình tích hợp giữa công nghệ số và giải pháp xanh trong sản xuất và tiêu dùng.
“Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh không phải là đường đua ngắn hạn, mà là một cuộc chuyển đổi căn bản, toàn diện, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm, quyết liệt và đồng bộ trong chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện”, đại biểu Thi nhấn mạnh.
Để vượt qua những thách thức đó, đại biểu cho rằng, cần một tầm nhìn dài hạn với các bước đi cụ thể, phù hợp, hành động quyết liệt, với việc triển khai đồng bộ các nghị quyết, đặc biệt là các nghị quyết của Đảng và các chính sách Quốc hội đang xem xét thông qua tại kỳ họp này, sẽ giúp định hình rõ hơn hình ảnh của Việt Nam trong kỷ nguyên mới là quốc gia số và quốc gia xanh.
Đại biểu nêu một số đề xuất, trong đó nhấn mạnh, chúng ta không chỉ bắt kịp mà còn dẫn dắt trong một số lĩnh vực then chốt của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với hệ sinh thái khởi nghiệp, công nghệ sôi động, các trung tâm R&D về AI, bán dẫn và các viện nghiên cứu đẳng cấp quốc tế. Xây dựng một xã hội số toàn diện, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Hình thành nền kinh tế số năng động với đóng góp tỷ trọng ngày càng lớn vào GDP dựa trên nền tảng công nghệ Make in Vietnam với những thương hiệu công nghệ khu vực và toàn cầu.
Phát triển nền nông nghiệp carbon thấp, công nghiệp xanh và dịch vụ bền vững, Đồng bằng sông Cửu Long trở thành biểu tượng toàn cầu về thích ứng với biến đổi khí hậu. Tận dụng tối đa lợi thế về gió, mặt trời, sinh khối để bảo đảm an ninh năng lượng và xuất khẩu năng lượng sạch. Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của du lịch bền vững với di sản thiên nhiên và văn hóa phong phú được bảo tồn và phát huy, nhất là những vùng biển với thiên nhiên kỳ vĩ.
* Hiểu đúng và hành động vì thị trường carbon
Cùng mối quan tâm về chuyển đổi xanh, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng) cho rằng, phát triển thị trường carbon là công cụ tất yếu để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Chính phủ đã xác định chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xây dựng thị trường carbon trong nước vẫn còn chậm so với lộ trình đề ra.
Hiện Việt Nam đang ở giai đoạn chuẩn bị vận hành thử nghiệm sàn giao dịch carbon (2025–2027), với hơn 1.900 cơ sở phát thải lớn đã được thống kê. Song, mới chỉ khoảng 20% doanh nghiệp có báo cáo kiểm kê phát thải hoàn chỉnh. Đây chính là điểm nghẽn lớn nhất, khiến thị trường carbon chưa thể vận hành mạnh mẽ và trở thành công cụ kinh tế hiệu quả trong giảm phát thải.
“Nếu không sớm hình thành thị trường carbon hiệu quả, doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU, Nhật, Mỹ sẽ phải chịu 'thuế carbon biên giới (CBAM)’, làm giảm năng lực cạnh tranh hàng hóa quốc gia”, đại biểu này cảnh báo.
Nêu thực tế, khái niệm “thị trường carbon” vẫn còn rất xa lạ với phần lớn người dân và doanh nghiệp, không ít người dân vẫn coi “biến đổi khí hậu là câu chuyện ở đâu đó xa xôi”, chưa nhận ra mối liên hệ giữa việc sử dụng điện, xăng dầu, hay tiêu dùng hàng hóa hàng ngày với lượng khí phát thải toàn cầu, theo đại biểu thành phố Hải Phòng, “khi xã hội chưa hiểu, doanh nghiệp chưa quan tâm, thì dù có hành lang pháp lý, thị trường cũng chỉ tồn tại hình thức, thiếu thanh khoản, thiếu động lực phát triển. Bởi vậy, phát triển thị trường carbon không chỉ là vấn đề thể chế, mà còn là vấn đề nhận thức xã hội”.
Bà Nga kiến nghị Chính phủ chỉ đạo một Chương trình truyền thông quốc gia về “hiểu đúng và hành động vì thị trường carbon”, kết hợp đưa kiến thức cơ bản về phát thải, tín chỉ carbon, tiêu dùng xanh vào trường học, truyền hình, nền tảng số và các khóa tập huấn doanh nghiệp.
Để phát triển thực chất thị trường carbon, theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, cần tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý về thị trường carbon, quy định rõ cơ chế giao dịch, đấu giá, giám sát, xử lý vi phạm. Xây dựng hệ thống theo dõi, kiểm đếm và xác nhận lượng phát thải thực tế minh bạch, độc lập cấp quốc gia, thống nhất giữa các bộ, ngành và doanh nghiệp phát thải lớn. Đẩy mạnh truyền thông đại chúng và giáo dục cộng đồng, coi truyền thông là “mũi đột phá mềm” trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải, khơi dậy tinh thần chủ động và sáng tạo từ mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp./.
Chu Thanh Vân







